1. Nền tảng của sự phá hủy
Có một câu của Heidegger, một câu làm nền tảng cho mọi cuộc phá hủy trên đời này, một câu thật gọn nói lên sự thất bại cao lớn của Heidegger, cũng đồng thời nói lên sự vĩ đại bi tráng của Heidegger, câu nói ấy đã được Heidegger nói lên sau khi ông đã phá hủy tư tưởng Heidegger, câu nói đen tối sâu thẳm, thăm thẳm như Hố thẳm, “uyên uyên kỳ uyên”, 淵淵其淵 đó là câu nói giản dị này: “Không ai có thể nhảy qua chính bóng mình”.
(Keiner springt über seinen Schatten). [13]
Heidegger viết câu trên để nói về sự phá hủy của Nietzsche nhưng đồng thời nói luôn về chính sự phá hủy của Heidegger đối với Nietzsche và đối với cả truyền thống Tây phương? Nietzsche không thể nhảy qua bóng của Nietzsche mà Heidegger cũng không nhảy qua được chính bóng của Heidegger. Bất cứ kẻ nào muốn phá hủy tư tưởng Heidegger thì cũng không thể nhảy qua được chính bóng hắn. Như thế nền tảng của sự phá hủy cũng có nghĩa là sự phá hủy chính nền tảng ấy; ở đây không phải là “chơi chữ”, việc “chơi chữ” tất nhiên không phải là sự việc chính yếu của tư tưởng: câu vừa rồi chỉ muốn diễn tả ý nghĩa trừu tượng sau đây: căn thể của hư vô có nghĩa là hư vô của chính căn thể ấy; nói theo ngôn ngữ của Heidegger trong tập Beiträge zur Philosophie (1936-1938): “Tính thể là căn tính (Grund) trong chân lý của tính thể nhưng lại cũng là một căn tính mà không có căn để, căn tính được hiểu như là vô căn, tức là “Hố thẳm” (Abgrund). Căn tính được hiểu như là Hố thẳm lại đồng thời là “căn tính mà không phải là căn tính” (Ungrund); nó che lấp và chôn vùi chính sự lập căn của nó và nó chỉ là “nguyên căn” (Urgrund) khi được hiểu là Hố thẳm và như là căn tính mà không phải là căn tính”.
Theo tinh thần triệt để của câu này thì nền tảng của sự phá hủy là căn tính, nhưng điều khó khăn nhất trong việc phá hủy tư tưởng Heidegger là: chính Heidegger đã tự phá hủy một cách triệt để rồi, vì chính Heidegger đã ý thức rằng căn tính phải được hiểu như là “Hố thẳm” (Abgrund). Như vậy chỉ còn có một cách duy nhất là nhảy. Phá hủy chỉ là phá hủy bên này biên giới, nhảy qua biên giới là Hố thẳm: Hố thẳm gởi sự phá hủy xuống lòng đời, Hố thẳm là căn tính của sự phá hủy, phá hủy căn tính không có nghĩa là phá hủy Hố thẳm mà chỉ có nghĩa là phá hủy sự phá hủy, mà phá hủy sự phá hủy thì chỉ có nghĩa âm u là: Hố thẳm lên tiếng kêu gọi Hố thẳm.
Trở lại ngôn ngữ bình thường thì phá hủy tư tưởng Heidegger có nghĩa là biết hỏi một cách “uyên uyên kỳ uyên” hơn cả câu hỏi của Heidegger. Nói theo Heidegger ở trang cuối cùng quyển Einführung in die Metaphysik:
“Biết hỏi có nghĩa là: biết chờ đợi, dù là chờ đợi trọn một đời… Điều chính yếu là đúng thời, nghĩa là đúng lúc và có được một sự kiên chí chính đáng.” (Fragen können heisst: warten können, sogar ein Leben lang… Die rechte Zeit, d.h. der rechte Augenblick und das rechte Ausdauern) [14] .
Biết hỏi “uyên uyên kỳ uyên” hơn cả Heidegger là biết hỏi theo cách “hiếu vấn” 好問 của vua Thuấn, biết chờ đợi theo “sĩ mệnh” 俟命 (đợi mệnh), đúng thời theo “thời trung” 時中, đúng lúc theo “trung tiết” 中節, sự kiên chí chính đáng theo “đốc hành” 篤行.
Biết hỏi là biết chờ đợi, dù chờ đợi trọn đời (Fragen können heisst: warten können, sogar ein Leben lang). Sự phá hủy triệt để nhất được thành tựu nơi Niềm Chờ Đợi “uyên uyên kỳ uyên, hiệu hiệu kỳ thiên”, niềm chờ đợi bên Hố thẳm của Thiên Thanh (Hoelderlin: Und hoch vom Äther bis zum Abgrund nieder…) như một lần đã được nói lên nơi trang cuối cùng của chương II của quyển Im lặng hố thẳm, 1967. [15]
Tư tưởng chính yếu, tư tưởng trung tính, đưa dẫn đến sự chờ đợi, sự chờ đợi “thăm thẳm như Hố thẳm, lồng lộng như trời cao” 淵淵其淵浩浩其天. Khi đi vào lãnh vực trung tính của tư tưởng thì tất cả mọi sự bài bác, phủ nhận, phá hủy đều trở nên ngớ ngẩn, ngờ dại, khờ khĩnh, vô nghĩa (Alles Widerlegen im Felde des wesentlichen Denkens ist töricht) [16] . Trong lãnh vực của đồng thể (l’identique) và dị thể (le différent) thì sự phá hủy chỉ bị lệ thuộc vào luận lý học, nhưng trái lại trong lãnh vực của Nhất tính và Đồng tính (domain de l’un et du Même) thì sự phá hủy chỉ có nghĩa khi mình thấy được sự vô nghĩa của chính sự phá hủy. Nền tảng của sự phá hủy là tính thể của chân lý, mà “tính thể của chân lý là chân lý của tính thể” (das Wesen der Wahrheit ist die Wahrheit des Wesens) [17] . Đây không phải chỉ là việc “đảo ngược chữ nghĩa” một cách dễ dãi, đây cũng không phải là lời nói mang ý nghĩa thông thường; trái lại, đây là lời nói của sự chuyển tính (die Sage einer Kehre) ngay trong lòng sử tính của Tính thể (innerhalb der Geschichte des Seyns).[18]
2. Sự phá hủy nền tảng
Giữa sự phá hủy và nền tảng hiện ra một Hố thẳm ngăn cách: đó là sự ngăn cách giữa sự phá hủy nền tảng và nền tảng của sự phá hủy. Đây không phải là biện chứng pháp, vì biện chứng pháp chỉ có thể xuất hiện sau sự ngăn cách Thiên Uyên ấy. Ý nghĩa của Thiên Uyên 天淵 trong Khổng học đã bị xuyên tạc trong mấy ngàn năm cũng như chính nghĩa của Trung Dung 中庸 từ mấy ngàn năm đã bị xuyên tạc ở Á Đông, vì “trung dung bất khả năng” 中庸不可能 là “bất khả năng” là giải thích ý nghĩa của “hoặc dược” 或躍 trong hào cửu tứ quẻ Kiền của Kinh dịch: đây là nói lên giây phút trầm trọng bi tráng nhất của Khổng Tử. Theo tôi, “trung dung” phải được hiểu như có ẩn nghĩa là “được”, “trung dung” không có nghĩa là chiếc cầu bắt qua giữa “uyên uyên kỳ thiên” “hiệu hiệu kỳ thiên” mà lại chính là “dược” (cái nhảy, le saut, Satz). Tất cả sự vĩ đại bi tráng của Khổng Tử [19] là nằm nơi tâm điểm này, vì giữa sự phá hủy và nền tảng hiện ra một Hố thẳm. “Trung dung” không phải là nền tảng ở giữa “thái quá” và “bất cập” mà là một cái nhảy phóng từ nền tảng; không thái quá, không bất cập không có nghĩa là chuẩn bị để nhảy; hào cửu tứ của quẻ Kiền trong Kinh dịch: “hoặc dược tại uyên” 或躍在淵 mang nghĩa “dược tại uyên” là “nhảy vào Hố thẳm”. Khổng Tử muốn nhảy và muốn chuẩn bị cái nhảy cho thiên hạ, nhưng thiên hạ lại không chịu nhảy và xuyên tạc “sự chuẩn bị để nhảy” của Khổng Tử thành ra một “chủ thuyết trung dung” đứng lì lại trên bờ và che lấp phủ vùi Hố thẳm. Từ khi Hố thẳm bị che lấp vùi đi thì người ta bắt đầu nói nhiều đến “xây dựng”, “thiết lập”, và sợ hãi khi nghe nói đến “phá hủy”, “phá hoại”, “hủy diệt”, rồi càng lúc ý nghĩa uyên nguyên của sự phá hủy đã chìm mất và sự phá hủy chỉ còn có hai ý nghĩa: hoặc phá hủy một cái gì đó để xây dựng một cái gì đó, hoặc phá hủy để mà phá hủy. Sự phá hủy nằm trong hai ý nghĩa này, hai nghĩa tuy khác nhau, nhưng thực ra chỉ là một; phá hủy để xây dựng và phá hủy để phá hủy đều có nghĩa là “bất khả năng” của một cái nhảy: không thể nhảy qua chính bóng mình. Chỉ có thể nhảy qua bóng mình là nhảy vào Hố thẳm (dược tại uyên), nhưng chỉ có thể nhảy vào là khi nào tương quan giao hệ giữa sự phá hủy và nền tảng phải được hội thông trong tư tưởng như là bị Hố thẳm ngăn cách mà vẫn thân cận nhau trong Đồng tính: đồng tính ấy có nghĩa là nền tảng của sự phá hủy chính là sự phá hủy của nền tảng; đồng tính không phải là đồng thể, sự dị biệt thể tính phải được hiểu như là đồng tính của thể tính tức là Như tính, vì thế sự dị biệt thể tính (la Différence ontologique) phải được hiểu như thế: Hố thẳm phải được hiểu như là Hố thẳm, như là chính Hố thẳm (Es ist Es selbst).
Nền tảng là để đứng mà nhảy, và nhảy là nhảy vào nền tảng, phá hủy là nhảy để đứng, nhưng xây dựng là đứng để nhảy; nhảy để đứng và đứng để nhảy là chuẩn bị cái nhảy tối hậu. Chuẩn bị cái nhảy tối hậu thì phải biết chờ đợi “biết hỏi, biết chờ đợi, dù là chờ đợi trọn đời”.
Khoa học nền tảng và tư tưởng phá hủy chỉ có tương giao trung tính là khi nào Hố thẳm giữa khoa học và tư tưởng, giữa nền tảng và sự phá hủy, được hiểu như là Hố thẳm không thể lấp đầy được. Heidegger đã chỉ tỏ dấu hiệu của con đường: “Từ những nền khoa học cho đến tư tưởng thì không có chiếc cầu bắc ngang nào cả, mà chỉ có một cái nhảy. Cái nhảy đưa mình, chẳng những qua tới bên bờ khác nhau, mà còn là một chỗ lưu trú hoàn toàn khác hẳn. Cái gì tự mở bày ra với sự lưu trú ấy thì không để cho chứng minh được, nếu chứng minh có nghĩa; suy luận diễn dịch từ những tiền lập thuận ứng và nhờ sự hỗ trợ của cả chuỗi lý lẽ, từ những mệnh đề phán từ quan thiết với sự trạng… [20]
Phá hủy đúng nghĩa là phá hủy tối hậu, không có nghĩa là phá hủy bằng cách “chứng minh” (démontrer) mà có nghĩa là “chỉ tỏ” (montrer) bằng dấu hiệu (Signe). Dấu hiệu, chữ Đức gọi là Zeichen, [21] Heidegger trong Sein und Zeit đã định nghĩa: “Một dấu hiệu chỉ tỏ điều được chỉ tỏ” (Ein Zeichen zeigt auf das Gezeigte)[22] . Phá hủy là đặt nền tiền lập trong chân lý tương hoà ứng thuận thì chỉ có nghĩa khi sự tương hoà ứng thuận (Übereinstimmung) này được đặt nền tảng nơi sự tương giao, tương quan, tương tính, giao tính (Beziehung) “Bất cứ sự tương hoà ứng thuận nào cũng đều là một sự tương quan giao tính, nhưng không phải bất cứ sự tương quan giao tính nào cũng là một sự tương hoà ứng thuận” (Jede Übereinstimmung ist eine Beziehung. Aber nicht jede Beziehung ist eine Übereinstimmung). Sự chỉ tỏ dấu hiệu là một tương giao, nhưng không phải là sự tương hoà ứng thuận giữa dấu hiệu với điều được tỏ bảy (aber keine Übereinstimmung von Zeichen und Gezeigtem). [23]
- Hết -
[1]Bài này chính là bài diễn thuyết tại Trung tâm Văn hoá Đức quốc, ngày 9 tháng 11 năm 1969 nhân dịp kỷ niệm sinh nhật tám mươi của Heidegger.
[2]Martin Heidegger, Was ist das - die Philosophie?, Neske, Pfullingen, 1966, trang 27.
[3]Martin Heidegger, Vorträge und Aufsätze, Pfullingen, 1954 (Essais et Conférences, Gallimard, 1958, trang 214).
[4]Martin Heidegger, Wegmarken, V. Klostermann, Frankfurt, 1967, trang 194.
[5]Martin Heidegger, Wegmarken, trang 148.
[6]W. Barrett, What is Existentialism, Grove Press, N. Y, 1964, trang 166 (“The silent power of the possible”, one of his most telling phrases, is the keynote to his thought).
[7]Sartre, Situations I, trang 70 – 80.
[8]Heidegger, Wegmarken, trang 150.
[9]M. Heidegger, Was heisst Denken? M. Niemeyer, Tübingen, 1961, trang 70.
[10]Cf. Egon Vietta, Die Seinsfrage bei Martin Heidegger, Stuttgart, 1950, trang 74.
[11]Vietta, op, cit, tr. 88.
[12]Thượng sĩ Huệ Trung, Ngữ Lục, Trúc Thiên dịch, Đại Học Vạn Hạnh xuất bản 1968.
[13]M. Heidegger, Einführung in die Metaphysik, trang 152.
[14]M. Heidegger, Einführung in die Metaphysik, trang 157.
[15]Im lặng hố thẳm, An Tiêm, 1967, trang 103.
[16]Heidegger, Über den Humanismus, Frankfurt am Mai, 1951, trang 23 sq.
[17]M. Heidegger, Vom Wesen der Wahrheit, 1954, trang 26.
[18]Vom Wesen der Wahrheit, trang 26.
[19]Richard Wilhelm, chú giải hào cửu tứ của quẻ kiền trong Kich Dịch: “một khả tính song đôi được bày ra cho vĩ nhân: hoặc vĩ nhân có thể bay bổng lên cao và đóng vai trò quan trọng ở đời, hoặc vĩ nhân có thể rút lui về với nỗi cô đơn và tu dưỡng bản thân. Hoặc vĩ nhân theo con đường của kẻ anh hùng cái thế hoặc theo con đường của đạo sĩ ẩn dật” (Richard Wilhelm, I Ging, Das Buch der Wandlungen, E. Diederichs, 1967, trang 29: Eine doppelte Möglichkeit liegt vor dem bedeutenden Mann: entweder sich aufzuschwingen und im grossen Leben massgebend zu sein oder sich zurückzubilden: derWeg des Helden oder des verborgenen Heiligen)
[20]Vorträge und Aufsätze, 1954 trang 134.
[21]Hố thẳm tư tưởng, 1967, trang 55 – 73.
[22]Sein und Zeit, 1960, trang 215.
[23]Sein und Zeit, 1960, trang 215.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét